Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Chủ thuyết Vô thần...

Go down 
Tác giảThông điệp
NgNgHai
Admin
NgNgHai


Tổng số bài gửi : 1379
Join date : 28/04/2011

Chủ thuyết Vô thần...  Empty
Bài gửiTiêu đề: Chủ thuyết Vô thần...    Chủ thuyết Vô thần...  EmptyThu Apr 28, 2011 10:37 pm


CHỦ THUYẾT VÔ THẦN MỚI MỚI CHỪNG NÀO?

(New Is the New Atheism?)

Chủ thuyết Vô thần...  Images7-8

“Khi Con của Người đến, Người có sẽ tìm thấy đức tin trên quả đất không?” —Luca 18, 8
Ngày sau khi tháp đôi của Trung tâm mậu dịch thế giới sụp đổ vào tháng chín 2001, vợ tôi và tôi tham dự một nghi lễ đặc biệt tại Thánh đường Công giáo Thiên Chúa Ba Ngôi gần Đại học Georgetown nơi tôi đã dạy học nhiều năm. Bill Byron, vị chánh xứ dòng Tên và nguyên viện trưởng Đại học Công giáo Mỹ, dâng Thánh Lễ và giảng một bài giảng đầy ý cầu nguyện. Nếu quí vị muốn hòa bình, ông nói, hãy thực hiện công bình. Người có đức tin phải không bao giờ từ bỏ hy vọng cải thiện phẩm chất cuộc sống khắp thế giới. Chúng ta cần tránh các giải pháp đơn giản hóa và kết án tổng quát các tôn giáo. Chúng ta tất cả phải làm cho thế giới công chính hơn không kể bao lâu, và không phải sử dụng bạo lực. Giữa nổi kinh hoàng và đau đớn to lớn những ngày sau 11 tháng 9, khuyến khích tương tự về thực hiện khoan dung, tình yêu, và công bình ngân vang qua các nơi thờ phượng trên khắp thế giới.

Vào khoảng đồng thời với các nghi lễ đó đang tiếp tục, một nhà triết học và sinh viên khoa học thần kinh trẻ tuổi tại Đại học Standford, Sam Harris, đang sáng chế ra một giải pháp khác, cấp tiến hơn nhiều, cho vấn đề đang leo thang của chủ thuyết khủng bố toàn thế giới. Khoan dung và đồng cảm đơn giản sẽ không làm được gì, ông ta nghĩ. Quả thực, khoan dung của đức tin là một nguyên ủy chính yếu của vấn đề. Đề nghị của Harris, như được trình bày trong các sách bán chạy nhất của ông Chấm dứt đức tin (The End of Faith) và Thư cho một quốc gia Kitô giáo (Letter to a Christian Nation), rõ như ban ngày.[i] Chúng ta có thể loại bỏ đức tin khỏi thế giới không phải bằng bạo lực mà bằng lý trí và sự lan tràn của khoa học. Tự xem mình như là một ông Phật mới, Harris quyết dịnh chia sẻ với các người đọc của ông—và với toàn thế giới—một cái gì như một phiên bản mới của Tứ diệu đế (Four Noble Truths) của Đức Phật cũ. Richard Dawkins và Christopher Hitchens thiết yếu cũng tuyên bố tương tự.

Chủ thuyết Vô thần...  Images3-2

CHỨNG ĐẾ THỨ NHẤT (The First Evident Truth)
Nhiều người trên thế giới đang sống những cuộc sống bi thảm một cách không cần thiết, Harris ghi nhận, phảng phất dội lại Diệu đế thứ nhất của Đức Phật “mọi cuộc sống đều đau khổ.” Giả định về bối cảnh của Harris là rằng mục đích của cuộc sống con người là để tìm hạnh phúc. Ngược lại, triết gia Immanuel Kant và các nhà tư duy khôn ngoan và các bậc thầy tâm linh khác đã dạy rằng hạnh phúc chỉ đến như là một phó sản phẩm của việc tìm kiếm một điều gì vĩnh cửu. Nhắm trực tiếp đến hạnh phúc là một phương cách chắc chắn không tìm thấy nó. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không hiện hữu và vũ trụ là không cứu cánh, điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nỗ lực cho một thế giới trong đó hạnh phúc, “một hình thái sung túc là điều thay chỗ cho mọi chuyện khác,” được bảo đảm cho số đông các cá thể (Harris, 205)[ii]. Harris không định nghĩa hạnh phúc, cũng không phân biệt nó với các thể loại khác của toại nguyện. Ông đơn giản giả định rằng tất cả chúng ta đều biết theo trực giác hạnh phúc là gì và rằng chúng ta phải lấy đó làm chủ đích của mọi hiện hữu đạo đức (170-71).

Rằng tất cả chúng ta chịu đau khổ và cuối cùng chết là không thể tránh khỏi, Harris nhận ra, vì đó là cách làm sao thiên nhiên và tiến hóa hành động. Chúng ta có thể làm dịu một số ưu phiền tự nhiên và kéo dài cuộc sống của chúng ta thậm chí nếu chúng ta không thể hoàn toàn loại bỏ đau khổ. Tuy nhiên, nổi đau đớn vô nghĩa mà chủ thuyết khủng bố gây ra là một chuyện khác. Có thể chúng ta có thể làm điều gì đó với chuyện đó, một điều gì cấp tiến. Như với việc nhận ra đầu tiên của Đức Phật, chúng ta phải bắt đầu đối mặt hoàn toàn với sự kiện rằng thế giới thực tại chứng kiến nhiều nổi khốn khổ không cần thiết, rõ nét nhất là các biến cố như cuộc thảm sát 11 tháng 9.

Chủ thuyết Vô thần...  Anh-27

CHỨNG ĐẾ THỨ HAI (The Second Evident Truth)
Harris tuyên bố, nguyên ủy của biết bao nhiêu phiền não chính là đức tin, cách riêng dưới hình thái niềm tin vào Thiên Chúa. Đức tin là “niềm tin không chứng cứ” (belief without evidence) (58-73, 85), và theo Hitchens điều này chính là điều “đầu độc mọi thứ.” Dawkins đồng ý (308), và cả ba tác giả cố gắng thuyết phục người đọc của họ rằng các đức tin độc thần—Do thái, Kitô, và Hồi giáo—tạo cơ sở cho một phần đáng kể của điều ác mà hiện thân con người làm khổ nhau suốt ba ngàn năm qua. Nhưng không phải chỉ các ý niệm kinh hoàng về Thiên Chúa như các ý niệm của al-Qaeda và những người cuồng tín khác gây ra biết bao khổ đau không cần thiết. Chính là đức tin, thuần túy và đơn giản.[iii]

Tuyên bố này không hoàn toàn như Diệu đế thứ hai của Đức Phật, nói rằng nguyên ủy của đau khổ là tham vọng (tanha). Nhưng có sự tương đồng, trong trường hợp này vì các ý kiến bệnh hoạn để thoả mãn ước muốn hình như không đáy biết bao nhiêu con người có do ảo vọng (Harris 23, 26-27, 38-39, 58-73). Trong một công thức gần như ngắn gọn như của Đức Phật—nguyên ủy của đau khổ là đức tin—các người vô thần mới của chúng ta muốn tập chú sự chú ý một cách chính xác trên những gì cần bị tiệt trừ nếu hạnh phúc đích thực phải được thực hiện.

Ý kiến Thiên Chúa được làm thành (fabricated) bởi đức tin là “nguy hiểm cách nội tại” (intrinsically dangerous) (44) và ác độc về luân lý (morally evil), không kể nó được hình thành dưới hình thái nào trong trí tưởng tượng của chúng ta. Tại sao? Tại vì không có chứng cứ nào về điều đó, và thực tế “không một chứng cứ nào thậm chí có thể quan niệm được” (no evidence is even conceivable) (23). Đặt căn bản nhận thức trên “chứng cứ” không chỉ là cần thiết về ý thức mà còn thiết yếu cả về luân lý. Thất bại thử nghiệm về chứng cứ, điều làm cho khoa học đáng tin cậy, “đức tin tôn giáo đại diện cho việc dùng sai quyền lực của tâm trí chúng ta cho đến nổi nó tạo thành một thể loại đơn biệt ngoan cố, văn hóa—một điểm ảo bên ngoài nó mà tiến trình lý trí chứng minh là không có thể được. Khi gán ép lại trên từng thế hệ, nó làm cho chúng ta không còn khả năng nhận ra thế giới của chúng ta đã nhượng bộ chừng nào cho một quá khứ đen tối và mọi rợ.” (25)

Các người vô thần mới muốn làm thật sáng tỏ rằng điều thực sự ác của các tôn giáo tin vào Thiên Chúa không những chỉ là các hình ảnh phỏng theo con người (anthropomorphic images) thô thiển của các thần chúa trỗi sinh từ “các điều tự nhiên tầm thường hơn—các lực như tham vọng, ghét bỏ, và sợ hãi” (15), mà còn rằng các thần chúa đó trỗi sinh từ “đức tin” hơn là từ “chứng cứ.” Cả “đức tin” và “chứng cứ” cần phải được hiểu cách cẩn thận. Ở đây từ “đức tin” có chức năng với các người vô thần mới gần như là “tham vọng” (greedy dersire) với Đức Phật. Đức Phật đã gán nổi đau khổ của chúng ta với xu hướng bám víu vào các sự vật một cách ám ảnh cho đến nổi chúng ta tự làm cho vướng phải thất vọng một khi chúng ta phải đối mặt với sự phù vân của mọi hiện thân. Vì thế nếu chúng ta muốn hạnh phúc, tốt hơn cả chúng ta đừng bám víu vào bất cứ thứ gì. Theo Đức Phật, “tham vọng” là nguồn gốc của đau khổ của chúng ta. Theo các người vô thần mới, đó chính là xu hướng của chúng ta tin vào bất cứ điều gì không có chứng cứ. Đức tin làm cho thế giới thành thảm hại hơn biết bao nhiêu so với việc cần đến nó.

Niềm tin vào Thiên Chúa là một phiên bản độc hại của đức tin. Chỉ cần xem đến mọi phương cách trong đó niềm tin vào Thiên Chúa và cuộc sống đời sau khuấy trộn thế giới ngày nay. Ví dụ, tôi đang viết các trang này vào ngày chết chóc nhất cho đến nay của việc thất bại hoàn toàn ở Iraq (15 tháng 8, 2007), khi những người cực đoan Hồi giáo giết chết nhiều đến năm trăm thành viên của giáo phái Yazidi. Mù quáng tin tưởng vào các định đề liên quan đến Thiên Chúa và cuộc sống đời sau, một nhóm những người tin vào tôn giáo tự làm nổ tung nhân danh Thiên Chúa nhằm để đồng thời cũng làm nổ tung những người tin vào tôn giáo khác. Chúng ta cần bằng chứng nào khác để nói rằng đức tin hữu thần không những đánh lừa mà còn là nguy hiểm? Đức tin vào Thiên Chúa xem ra ngây thơ vô tội với phần lớn chúng ta, nhưng theo Harris, đức tin có thể dẫn đến bất cứ thứ gì. Sự tin tưởng nhẹ dạ điên khùng dẫn người Kitô giáo đến tin tưởng, theo ngôn từ của Harris, rằng Giêsu “lừa dối sự chết, và nâng thân xác lên vào thiên đàng,” hoặc ý kiến hết sức phi lý về việc chuyển thể (transubtanstiation) cho phép người Công giáo tin rằng Giêsu có thể “bị ăn dưới hình thái một chiếc bánh cracker” và rằng người tin có thể uống máu ông ta nhờ uy lực của “vài từ Latin đọc bên trên rượu vang Burgundy ưa thích của quí vị,” xem ra cũng tàng tàng vô hại. Nhưng cánh cửa đức tin mở ra cho điều vô nghĩa thơ ngây như thế bất hạnh thay cũng cung cấp không gian cho các niềm tin không biện minh dẫn đến “các tội ác quỉ quái nhất chống lại nhân loại” (78-79).

Các người vô thần mới đinh nghĩa đức tin là niềm tin không có chứng cứ (faith as belief without evidence). “Chứng cứ” là một cụm từ sống còn, nêu lên vô số lần trong sách của Harris và tại các điểm chìa khóa trong sách của Dawkins (282-83). Nhưng “chứng cứ” là gì? Các tác giả không bao giờ cẩn thận định nghĩa cụm từ đó có ý nghĩa gì, rõ ràng nó có nghĩa đối với họ là bất cứ những gì khả dĩ thử nghiệm, thực nghiệm, hoặc quan sát được cách công khai. Các tuyên bố khác thường như tuyên bố về tôn giáo, như Harris xác nhận, đòi buộc một “thể loại thử nghiệm khác thường,” nhưng chẳng có loại nào khả dĩ. Vì chỉ có khoa học mới chứng thực hay không thực các định đề của nhân loại, người ta phải kết luận rằng các ý niệm tôn giáo, thiếu bất cứ chứng cứ cụ thể nào, không thể tuyên bố là đúng sự thực một cách hợp pháp. Không trải qua một vài thể loại thử nghiệm thực nghiệm, gần như bất cứ thứ gì cũng có thể trở thành chấp nhận được trong tâm trí tôn giáo, kể cả niềm tin rằng tử đạo bằng nổ bom tự tử sẽ phóng người ta lập tức vào thiên đàng. Vì thế, chỉ có các tuyên bố có “đầy đủ chứng cứ” là chấp nhận được với những ai muốn chấm dứt sự thảm hại con người.

Các nhà thần học ngày nay hiểu đức tin như là sự cam kết trọn vẹn hiện thân của con người với Thiên Chúa (the commitment of one’s whole being to God). Nhưng các người vô thần mới, dội lại một nền thần học giờ đây đã thành cổ điển, nghĩ đến đức tin theo một nghĩa trí tuệ và định đề hẹp hòi. Vị trí của đức tin theo họ không phải là một con tim dễ bị thương tổn mà là một trí tuệ yếu hèn. Harris, Dawkins, và Hitchens xem mọi hình thái đức tin là phi lý, và lạm dụng lý trí bằng cách chứa chấp đức tin trong tâm trí con người cũng là không đạo đức một cách kinh hoàng. Thật sai lầm theo luân lý để tin vào bất cứ điều gì không đủ chứng cứ. Theo quan điểm đó, các người vô thần mới nhận lấy những gì mà các người vô thần của thế hệ cũ hơn gọi là “đạo đức tri thức” (ethic of knowledge) làm nền tảng cho cuộc sống cả luân lý lẫn nhận thức.Vào các năm cuối 1960, nhà sinh hóa học đáng chú ý và vô thần Jacques Monod tuyên bố rằng “đạo đức tri thức” phải là nền tảng của mọi tuyên bố luân lý và trí tuệ. Ông tuyên bố thật là không đạo đức khi chấp nhận bất cứ ý kiến nào thất bại trong việc dính liền với “định đề khách quan” (postulate of objectivity). Nói cách khác, thực là sai lầm về luân lý khi chấp nhận bất cứ tuyên bố nào không thể chứng thực được trên nguyên lý bằng hiểu biết khoa học “khách quan.” Nhưng, thế thì, chính bản thân giáo điều đó thì sao? Có ai có thể chứng tỏ một cách khách quan rằng định đề khách quan là chân thực? Ở đây Monod thành thực hơn các người vô thần mới rất nhiều. Ông thú nhận có một ngoại lệ cần thực hiện với định đề khách quan. Đạo đức tri thức chính tự bản thân là một chọn lựa “tùy tiện” (arbitrary), không phải là một tuyên bố đã từng có đầy đủ chứng cứ khoa học. Đức tin, hình như thế, cũng mở ra một cánh cửa đủ rộng cho chủ thuyết vô thần nữa.[iv]

Dĩ nhiên, mọi hiểu biết phải khởi đầu ở đâu đó, và cái ở đâu đó được gọi cách đúng đắn là đức tin, thậm chí nếu các người chỉ trích của chúng ta bất bình về từ ngữ đó. Ở một vài tầm mức nền tảng, mọi hiểu biết bắt nguồn từ một tuyên ngôn về tin tưởng, trong một “ý nguyện để tin” (a “will to believe”). Ví dụ, chúng ta phải tin tưởng vũ trụ đã có một vài ý nghĩa nào đó thậm chí trước khi chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu về tính tri thức của nó. Các tuyên ngôn không tri thức được về đức tin cũng ủng hộ mọi tuyên bố các người vô thần đưa ra, kể cả việc chính thức loại bỏ đức tin. Trong một luận văn nhan đề “Ý nguyện để tin” (The Will to Believe), luận văn mà các người vô thần của chúng ta không tỏ dấu hiệu nào cho thấy họ đã đọc, triết gia William James chỉ trích W. K. Clifford về việc đưa ra một tuyên bố đạo đức cách tùy tiện cho đến nổi thực là sai lầm nếu tin vào bất cứ điều gì mà không đầy đủ chứng cứ. [v] Tất cả những gì quí vị phải làm là đọc luận văn rất quan trọng của James để nhận ra rằng, ít nữa trong những gì chúng ta đã nhìn thấy cho đến nay, hoàn toàn chẳng có gì mới trong chủ thuyết vô thần mới. Nhưng xin để chúng ta tiếp tục xem xét.

Chủ thuyết Vô thần...  Anh-26

CHỨNG ĐẾ THỨ BA (The Third Evident Truth)
Phương cách để tránh nổi đau khổ vô ích của nhân loại ngày nay là loại bỏ đức tin ra khỏi bề mặt trái đất. Diệu đế thứ ba của Đức Phật nói rằng phương cách để vượt qua đau khổ là tìm cách xa rời khỏi bám víu vào ham muốn. Các người vô thần mới—cách riêng Harris, người ưa chuộng một phiên bản biên tập lại rất sát giáo lý Phật giáo—tin rằng xa rời khỏi ràng buộc với đức tin có thể loại bỏ đau khổ không cần thiết cho thế giới. Ở đây, “đức tin” là cái hầm không đáy trong ý thức tạo thành chỗ cư trú cho mọi thứ từ niềm tin vào đĩa bay, đến phù thủy, linh hồn, thiên thần, ma quỉ, thiên đàng, và Thiên Chúa. Đa phần các niềm tin đó xem ra cũng vô hại, nhưng nếu chúng ta cho phép người ta bỏ đi thậm chí các ví dụ vô tội nhất của đức tin, điều gì sẽ ngăn cản một người cấp tiến Hồi giáo khỏi tin tưởng rằng ý định của Thiên Chúa là hủy diệt Israel và Hoa kỳ, hoặc một người theo chủ thuyết Zion khỏi tin tưởng rằng Thiên Chúa muốn chúng ta sát hại những người Palestine vô tội, hoặc một người Kitô giáo khỏi tin tưởng rằng ý Thiên Chúa muốn bỏ bom các nơi phá thai? Một khi ý nguyện của Thiên Chúa bị tưởng tượng để chấp nhận các hành động bạo lực như vậy, lúc đó điều gì cũng có thể được—kể cả các điều kinh hoàng nhất không thể nghĩ tới.

Thông cảm được, lúc đó, các người vô thần mới hỏi làm cách nào chúng ta có thể chuyển hướng một thế giới nơi giết chóc và gây thương tật vì kỳ thị nhân danh Thiên Chúa trở thành thực sự không thể nghĩ tới được. Vì một thế giới như vậy chưa hiện hữu, đòi buộc phải có một giải pháp cấp tiến: chúng ta phải gạt bỏ toàn bộ đức tin. Mọi người cần phải chấm dứt tin tưởng vào bất cứ khẳng định nào không thể được “chứng cứ” ủng hộ. Điều này cách riêng áp dụng cho tất cả mọi cuốn sách mà người theo tôn giáo đã từ bao đời cho là thiêng thánh. Vì loại văn chương cho là được cảm hứng của các tôn giáo tin vào Thiên Chúa là một sản phẩm của đức tin, không có một lý do nào để chấp nhận nó cách nghiêm chỉnh. Ngoại trừ một vài đoạn đây đó hấp dẫn cách thẩm mỹ, các Kinh thánh của mọi tôn giáo đều vô giá trị. Hơn nữa, những gì xem ra đúng về luân lý hay quyền rủ về thẩm mỹ trong các cuốn sách cho là thánh thiêng và các truyền thống của chúng ta có thể đến được bởi lý trí hoạt động độc lập với đức tin.

Việc chỉ trích đức tin cũng áp dụng cả cho thần học, điều mà các người vô thần mới tỏ ra tuyệt đối khinh khi, hoảng kinh với sự kiện rằng vào lúc này ở thời đại chúng ta thậm chí vẫn còn các ðiều lố bịch như là các phân khoa khoa bảng mang tên như vậy. Ho băn khoăn tại sao càng nhiều học giả và những người khác mà chúng ta trông mong họ là thông minh xem ra không chú ý đến việc thần học nguy hiểm đến thế nào cho thế giới. Thần học, nói cho cùng, dẫn phái Hồi giáo này giết chết phái khác nhân danh Thiên Chúa. Chính trong đầu óc của các nhà thần học mà các khích lệ về toà án dị giáo và tàn sát đã nẩy nở. Chứng cứ không thể chối cãi được. Lịch sử của Do thái, Kitô, và Hồi giáo là một lê lết của vô số đau khổ và chết chóc gây ra bởi các cuộc tranh chấp thần học lố lăng. Đó là phán đoán của tất cả ba người chỉ trích của chúng ta. Xin thành thực nhìn vào gốc rễ của chủ thuyết khủng bố ngày nay, họ có thể khuyên bảo chúng ta như thế. Xin nhìn vào tất cả các vấn đề quốc gia và quốc tế gây ra bởi ý niệm về Thiên Chúa trỗi sinh từ các sản phẩm tưởng tượng thần học ăn bám vào xu hướng đáng khinh của chúng ta về đức tin. Mỗi một khi chúng ta tháo giày ra ở trạm kiểm soát an ninh của sân bay, người ta có thể thêm, cũng xin chỉ suy tư đến nguyên ủy cuối cùng của điều tuế toái này.

Các nguy hiểm không tiền lệ đe dọa chúng ta ngày nay, Harris nhấn mạnh, sẽ chỉ trở nên tệ hại hơn trừ phi một giải pháp kiên quyết có thể được tìm thấy. Người theo phái phóng túng và xã hội khờ khạo gợi ý rằng nếu chúng ta muốn có hòa bình, chúng ta tất cả cần thực hiện công bình. Nhưng một giải pháp như vậy chưa đủ cực đoan cho các người vô thần mới. Nguyên ủy cội rễ của các hình thái rồ dại nhất của bạo lực dù sao cũng không phải là nghèo đói và bất công. Đúng ra, chính là đức tin và thần học. Đức tin và thần học có thể dẫn một số người đến các nghi lễ đầy nguyện cầu như người tôi đã nói ngay đầu chương này. Nhưng vì kinh nguyện dựa vào tính phi lý của đức tin, bằng cách thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta chỉ đang kéo dài nổi đau khổ của con người về lâu về dài. Ngày sau ngày 11 tháng 9, thay vì dự phần vào một nghi lễ tôn giáo, vợ tôi và tôi lẽ ra dùng thời giờ của chúng tôi tốt hơn, theo Harris, bằng cách làm việc tìm đến một chủ thuyết thế tục cấp tiến chối bỏ bất cứ tình trạng nào của đức tin của đủ mọi thể loại. Chỉ có “chấm dứt đức tin” nắm giữ bất cứ lời hứa nào về việc cứu thế giới.

Thay vì chấp nhận Diệu đế thứ ba dịu dàng hơn của Đức Phật xưa cũ như là phương cách chấm dứt đau khổ, các người vô thần mới tìm cách đề ra cho chúng ta một thể loại khác cấp tiến nhưng, họ nghĩ, hữu hiệu hơn về tu khổ hạnh—đích danh là, xóa sạch đức tin khỏi tâm trí chúng ta. Môn học mới này về thanh tẩy, nếu thi hành theo các tiêu chuẩn khắc nghiệt của các người vô thần mới, sẽ dẫn đến việc loại bỏ mọi xu hướng ngây ngô tin tưởng mà không chứng cứ. Ý niệm về Thiên Chúa do đó phải được tẩy sạch vĩnh viễn khỏi nhận thức con người, nhưng điều này không thể xẩy ra riêng biệt với việc “chấm dứt đức tin.” Làm sạch thế giới khỏi những gì như là Osama bin Laden và al-Qaeda bằng vũ lực sẽ không làm tròn sự việc. Điều cần phải loại bỏ là đức tin dưới mọi hình thái, và tất cả các người vô thần mới của chúng ta nghĩ về chính họ như là tiên phong trong việc tẩy sạch trước sau chưa hề có này.

Đến lúc này, các người vạch trần sự thực của chúng ta hình như đã hoàn tất, nhưng họ chỉ mới khởi đầu. Ở đây họ bắt đầu cống hiến một điều gì đó mới mẻ đáng giật mình, ít nữa ra ngoài tầm với của tính độc tài vô thần. Họ nói, không chỉ đức tin mà sự khoan nhượng lịch thiệp và văn minh của chúng ta về đức tin phải bị lật gốc rễ lên nếu tiến trình đến hạnh phúc đích thực muốn thành tựu. Harris là minh nhiên nhất trong quan điểm này. Những người ôn hòa tôn giáo và biện bác của họ về quyền đức tin, ông bực tức, chịu “phần lớn, trách nhiệm về sự đối kháng tôn giáo trong thế giới chúng ta…” (45). Dawkins hoàn toàn ủng hộ ông:
Bao lâu chúng ta tôn trọng nguyên lý rằng đức tin tôn giáo phải được tôn trọng, đơn giản vì nó là đức tin tôn giáo, khó mà rút sự tôn trọng khỏi đức tin của Osama bin Laden và những người ôm bom tự sát. Việc làm thay thế, một điều rõ ràng cho đến nổi không cần phải nhấn mạnh, là từ bỏ nguyên lý tự động tôn trọng đức tin tôn giáo. Đó là lý do tại sao tôi làm mọi điều có thể làm được trong quyền hạn của tôi để cảnh báo con người chống lại chính đức tin, không chỉ chống lại cái gọi là đức tin “cực đoan.” Việc giáo huấn của tôn giáo “ôn hòa,” cho dẫu tự chúng không phải là cực đoan, là một mời gọi rộng mở cho chủ thuyết cực đoan. (306)

Khoan nhượng đức tin vẫn còn là một thành phần không thắc mắc của các xã hội dân chủ, nhưng ảo giác ác độc mà sự độ lượng này cho phép sẽ tiếp tục gây ra nổi khốn khổ vô cùng. Nếu chúng ta nuông chiều bất cứ thể loại đức tin nào, chúng ta tự đặt mình thành nạn nhân hóa bởi “những người tin đích thực” đủ mọi thể loại. Tôn trọng không kỳ thị với đức tin đủ để làm cho mỗi một con người khoan nhượng giữa chúng ta thành một tòng phạm trên thực tế (de facto) gây điều ác.

Thay vì đồng cảm với đức tin tôn giáo theo phương cách dịu dàng mà những người ôn hòa thế tục và tôn giáo đã làm trong quá khứ, các người vô thần mới muốn chúng ta từ bỏ sự tôn trọng như vậy cả với tự do đức tin lẫn với tư duy tôn giáo. Không có gì cản trở việc nắm bắt nhìn rõ vấn đề khẩn cấp nhất của thế giới ngày nay—chủ thuyết khủng bố cảm hứng từ tôn giáo—một cách kém tư duy hơn là thần học ôn hòa và sự khoan nhượng thế tục phóng túng về đức tin. Cuối cùng, chúng ta phải nhận biết rằng sự khoan nhượng thần học, thế tục, cánh trái, sau hiện đại, và lòng tốt cách đơn giản của chúng ta về đức tin tự nó đã trở thành không thể khoan nhượng được. Những người ôn hòa tôn giáo, Harris viết, “tưởng tượng rằng con đường đến hòa bình sẽ mở ra bằng phẳng một khi mỗi một người trong chúng ta đã học cách tôn trọng các niềm tin không biện minh được của người khác.” Nhưng “chính ý niệm về khoan nhượng tôn giáo—sinh ra từ khái niệm rằng mỗi hiện thân con người phải được tự do tin tưởng vào bất cứ điều gì người ta muốn về Thiên Chúa—là một trong các động lực chính yếu đẩy chúng ta tiến đến vực thẳm không đáy” (14-15). Từ bỏ bất cứ quan tâm về tính đúng đắn chính trị, Harris xem ra tuyệt đối nghiêm chỉnh trong lời tuyên bố của ông rằng chúng ta không còn có thể khoan nhượng được sự khoan nhượng phóng túng về đức tin. Như thế, ở đây, chúng ta gặp được một điều gì tương đối mới mẻ trong các bài viết của các người vô thần mới.

Cũng mới mẻ qua Dawkins, Harris, và Hitchens là sự không khoan nhượng chẳng những với thần học mà còn với sự điều chỉnh mềm mại, “Neville Chamberlain[1],” mà gần hết những người đồng bạn của họ và những người theo chủ thuyết thiên nhiên khoa học đối xử với sự hiện hữu của đức tin (Dawkins 66-69). Trong nhiều năm nghiên cứu và bàn luận với các người thiên nhiên khoa học, tôi chưa hề gặp phải một sự không khoan nhượng hoàn toàn như vậy với lòng khoan nhượng. Sự không khoan hượng với lòng khoan nhượng (intolerance of tolerance) xem ra là một khía cạnh thực sự mới của giải pháp của các người vô thần mới đối với vấn đề khốn khổ của con người. Gần hết mọi điều Dawkins, Harris, và Hitchens (và cố vấn triết học của họ Dennett) có gì để nói về tôn giáo, đức tin, và thần học đều đã được nói đến rồi. Chắc chắn việc từ khước phủ trùm vị trí nhận thức về đức tin tôn giáo không phải là mới mẻ, cũng không phải việc họ kết án tôn giáo trên cơ sở luân lý. Chủ thuyết thiên nhiên khoa học, mà các giáo điều của nó các người vô thần mới của chúng ta đã lập thành trường phái một cách có phương pháp, đã từ lâu cho rằng thiên nhiên là điều duy nhất có và rằng khoa học là con đường đặc quyền đi tới việc nhận hiểu thế giới. Tuy nhiên, đa phần những người trung kiên với chủ thuyết thiên nhiên khoa học trong giai đoạn hiện đại đã nhận ra rằng họ may mắn sống trong các nền văn hóa và các đất nước nơi đa số các đức tin được chấp nhận. Họ đã biết ơn vì lòng nhận hậu đó, vì nếu khác đi, chủ thuyết thiên nhiên khoa học có thể không bao giờ được phép hiện hữu song song với các hệ thống niềm tin chống đối lại nó theo ý thức hệ. Quả thực, nếu nó tùy thuộc vào một cuộc bầu phiếu tại Hoa kỳ ngày nay, như các người vô thần mới chắc chắn đồng ý thế, chủ thuyết thiên nhiên khoa học sẽ bị bỏ phiếu đuổi khỏi địa bàn bởi đa số các công dân.

Các người vô thần mới đúng khi chỉ ra biết bao nhiêu hệ thống niềm tin khác với niềm tin của họ thường thường không khoan nhượng và man dã. Nhưng chắc chắn họ phải nhận ra rằng hệ thống niềm tin của chính họ, chủ thuyết thiên nhiên khoa học, sẽ không bao giờ tự nó được thành lập trong thế giới hiện đại này nếu không phải nhờ lòng khoan nhượng trải ra cho những “người tư duy tự do” (freethinkers) bởi cũng chính các nền văn hóa tôn giáo đã cho khoa học trỗi sinh. Câu trả lời của họ là rằng trước tiên các nền văn hóa tôn giáo chính chúng nó không bao giờ là một biện minh thực sự luân lý hay hợp lý để hiện hữu. Đức tin, vì nội tại là điều ác, một cách lý tưởng, phải không bao giờ được trao một chút quyền hiện hữu nào. Hơn nữa, khi sự thông minh con người thoạt xuất hiện trong tiến hóa, nó lẽ ra không cho phép chính nó bị kiềm hãm bởi đức tin, bất kể bằng cách thích nghi sinh học nào của tâm trí với không lý trí đã xẩy ra như thế.

Harris nghĩ ông có thể tránh được chuyện không khoan nhượng cực đoan này vì theo mức ông liên hệ, nó dựa vào lý trí hơn là đức tin. Tuy nhiên, chủ thuyết khoa học (scientism) của chính Harris và Dawkins, cột sống trí tuệ của chủ thuyết thiên nhiên khoa học của họ, là một niềm tin cũng có thể không “đủ” “chứng cứ” khoa học hay thực nghiệm. Không có phương cách nào, nếu không suy nghĩ vòng quanh, thiết lập thí nghiệm khoa học để chứng minh rằng mọi mệnh đề đúng phải đặt cơ sở trên chứng cứ thực nghiệm hơn là đức tin. Việc kiểm duyệt mọi trường hợp về đức tin, theo nghĩa hẹp hòi của các người vô thần mới của cụm từ này, sẽ cũng phải kể cả việc loại bỏ chủ thuyết khoa học nữa. Người theo chủ thuyết thiên nhiên khoa học thực sự đầy đủ tư duy—Einstein là một ví dụ tốt—đã đủ thành thực để thú nhận rằng đức tin, cách riêng đức tin rằng vũ trụ có thể được hiểu đầy đủ, đều đặt nền tảng cho chính công việc của khoa học. Hơn nữa, tuyên bố rằng sự thực chỉ có thể đạt tới bằng lý trí và khoa học hoạt động độc lập với bất cứ đức tin nào tự nó cũng là một tuyên bố về đức tin. Sự nhất quán hoàn toàn sẽ đòi buộc rằng thế giới tư duy của các người vô thần mới cũng phải bị tẩy sạch chủ thuyết khoa học và chủ thuyết thiên nhiên khoa học nữa.

Chủ thuyết Vô thần...  Anh-dep-nghe-thuat06-1

CHỨNG ĐẾ THỨ TƯ (The Fourth Evident Truth)
Phương cách để loại bỏ đức tin, và từ đó loại bỏ đau khổ, là đi theo con đường thánh thiêng của phương pháp khoa học. Đề xuất bởi Harris, và được các người vô thần mới khác ủng hộ, con đường khó khăn nhưng không thể thiếu này đi đến khai sáng đích thực là phiên bản Bát chánh đạo (the Eightfold Path) của các người vô thần mới như được kê đơn cho Tứ điệu đế của Đức Phật. Đi theo con đường khoa học sẽ đem lại cho người ta một thể loại mới về “liên kết đúng” (right association)—nói rõ ra, với những ai đã nắm được tinh thần của khoa học—và “nhận thức đúng” (right understanding), một phương pháp thực nghiệm sẽ đem tâm trí chúng ta vượt khỏi những tưởng tượng và tầm thường của đức tin tôn giáo. Chúng ta có thể tìm thấy khai sáng đích thực chỉ nếu chúng ta đích thân tập sự với các bậc thầy đó, trong đó có Harris, Dawkins, Dennett, và Hitchens, những người đã đạt đến khai sáng bằng phương cách lý trí khoa học.

Giải pháp này chỉ ngang trang vừa lứa trong tính nông cạn của nó vớí chủ thuyết cơ bản tôn giáo mà nó phản ánh cho dẫu trong khi chống đối lại. Trong một thế giới hỗn loạn và không chắc chắn, sự hấp dẫn của một giải pháp đơn độc, đơn giản có thể không cưỡng lại được. Khi sự vật trở thành xấu đi, nó có xu hướng trở thành quỉ quái và xé toạc ra một trong vô số tao của mạng lưới phức tạp của đời người, trách cứ mọi điều chỉ riêng vì tao đó. Ví dụ, một số Kitô hữu Mỹ mộ đạo ngày nay tìm thấy nguyên ủy chính duy nhất của tất cả mọi bệnh hoạn của thời hiện đại trong “chủ thuyết Darwin.” Loại bỏ chủ thuyết Darwin, như họ gọi thế, và mọi sự sẽ tốt đẹp hơn. Charles Darwin, nhà tự nhiên học khiêm tốn tại Downe, giờ đây thường bị nhiều người Kitô hữu chỉ danh như là nguyên ủy duy nhất hoặc chính yếu của thảm họa xã hội và đạo đức của chúng ta. Các ý niệm mới lạ của Darwin bị coi như là nguyên ủy cuối cùng của chủ thuyết vô thần, chủ thuyết quốc xã, chủ thuyết Công sản, và sự suy tàn của các giá trị tôn giáo và gia đình. Như thế, giải pháp của người đề xuất thiết kế thông minh Phillip Johnson cho các bệnh hoạn đó là đem chủ thuyết Darwin ra khỏi tâm trí của con người, và phương cách để thực hiện điều đó là trình bày các điều thay thế cho lý thuyết tiến hóa trong các trường trung học.[vi]

Đức tin, với các người vô thần mới, tương đồng với những gì là chủ thuyết Darwin với những người thuyết tạo dựng. Loại bỏ đức tin và mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Với Dawkins, Harris, và Hitchens, việc loại bỏ tôn giáo khỏi tâm trí chúng ta và đời sống công cộng là liều thuốc bách bệnh sẽ chấm dứt đau khổ và gian ác, ít nữa đến chừng mực thiên nhiên cho phép.Và phương cách tốt nhất để hạ bệ đức tin không phải bằng bạo lực hay thậm chí hành động chính trị mà bằng cách làm đầy tâm trí với khoa học và lý trí. Các ông bạn vô thần của chúng ta tin tưởng chắc chắn vào sự hữu hiệu của chương trình này. Vì thế có thể sẽ còn ít nhất một trường hợp của đức tin sót lại trên quả đất khi Con của Người trở lại.

Chủ thuyết Vô thần...  Anh-dep-nghe-thuat19

Ý NGHĨA CỦA ĐỨC TIN (The Meaning of Faith)
Nếu người đọc vẫn còn chưa rõ ràng, việc nhận thức “đức tin” mà các người vô thần mới cho là dĩ nhiên mang rất ít tương đồng với đức tin của thần học. Điểm khác biệt chính yếu là rằng các người vô thần mới nghĩ về đức tin như là một nỗ lực sai lầm về trí tuệ (an intellectual erroneous attempt) với một điều gì như nhận thức khoa học chẳng hạn, trong khi thần học nghĩ về đức tin như là một tình trạng tự dâng nộp (self-surrender) trong đó toàn thể hiện thân con người, và không chỉ trí tuệ, kinh nghiệm qua việc được đưa đi vào trong một chiều kích của thực tại sâu thẳm hơn và thực sự hơn bất cứ thứ gì có thể được khoa học và lý trí nắm bắt. Đó là lý do tại sao rất thông thường đức tin đi kèm với nghi lễ. Nhưng định nghĩa của đức tin mà Dawkins, Dennett, Harris, và Hitchens tất cả chấp nhận lại là “niềm tin không chứng cứ.” Họ nghĩ về đức tin như là một loạt giả thiết—ví như giả thiết về Thiên Chúa hoặc giả thiết về linh hồn—thiếu chứng cứ khoa học hoặc thực nghiệm đầy đủ cho những người có lý trí chấp nhận. Họ cho phép rằng nều thể loại đích thực của chứng cứ thực nghiệm có bao giờ sẽ bày tỏ ra, lúc đó những người có lý trí sẽ được phép đưa ra sự đồng thuận với giả thiết Thiên Chúa hoặc giả thiết linh hồn. Nhưng lúc đó sẽ không còn cần đến đức tin nữa. Tri thức sẽ thay thế nó.

Với thần học, tuy nhiên, mục tiêu là làm sâu thêm đức tin, không phải loại bỏ nó. Theo các truyền thống hữu thần, tinh túy của cuộc sống lý tưởng, ngay cả cuộc sống anh hùng, là sẵn sàng chờ đợi trong đức tin, tín nhiệm và hy vọng về sự hoàn thành rốt cuộc và sự giải thoát cuối cùng. Hậu quả, khi Harris và các người khác mời gọi mọi người từ bỏ đức tin của họ và sống chỉ bằng lý trí, họ không hề biết họ đang đòi hỏi điều gì. Lời mời gọi tham gia với họ vào một thế giới không có đức tin đối với phần lớn con người nghe như một khẩn nguyện thu nhỏ thế giới chúng ta thành một điểm nơi tất cả chúng ta đều có thể bị ngột ngạt. Vì thậm chí nếu vũ trụ gồm 300 tỉ hệ mặt trời, và nhiều vũ trụ, nếu nó hiện hữu, hàng tỉ nhiều hơn, người có học thức biết rằng thế giới vẫn là hữu tận và có thể tàn lụi. Và theo tính toán của bất cứ ai, một mầu nhiệm siêu nhiên vô tận vẫn nhiều ấn tượng hơn bất cứ sự bao la không gian và thời gian hữu tận dưới quyền của khoa học. Khuyên bảo người ta từ bỏ những gì họ cho là—dù đúng dù sai—đường đời của họ đến sự vĩ đại vô tận của mầu nhiệm siêu nhiên, và mời gọi họ rút nhỏ cuộc đời, tâm trí, và tâm hồn họ vào trong một thế giới tương đối nhỏ nhoi của việc mục tiêu hóa khoa học, sẽ không được tiếp đón nồng nhiệt ở khắp nơi. Dĩ nhiên, khoa học chẳng có gì sai cả. Nhưng nếu chúng ta được phép phỏng theo hình ảnh phi thời gian của Edwin Abbott, Harris, Dennett, Hitchens, và Dawkins xem như người đang ở một thế giới hai chiều, những người sau khi đã làm chủ được lãnh vực sinh sống đó, giờ đây bận bịu mời gọi những ai đang chiếm giữ thế giới được thú nhận là mất phương hướng hơn của nhiều chiều kích vui lòng đi xuống sống với họ trong vùng Đất phẳng (Flatland).[vii]

Chủ thuyết Vô thần...  A1-22-1

NNH - Sk......
Về Đầu Trang Go down
https://runglathap.forum-viet.com
 
Chủ thuyết Vô thần...
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Bài Thuyết trình của Đức Cha Bùi Văn Đọc...
» Bài Thuyết trình của NNH.
»  Thuyết TIẾN HÓA...
» Bé Như Ý thuyết giảng đề tài Tu Hành...
» Những bài thuyết pháp của Đại Đức THÍCH TÂM MẪN...

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: NGHỆ THUẬT - KIẾN THỨC :: MỞ CỬA TƯ DUY-
Chuyển đến