Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim...

Go down 
Tác giảThông điệp
NgNgHai
Admin
NgNgHai


Tổng số bài gửi : 1379
Join date : 28/04/2011

Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim... Empty
Bài gửiTiêu đề: Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim...   Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim... EmptyMon Jun 20, 2011 10:57 pm

Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim...

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như yêu người người em gái.
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về.. thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê..
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối. Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần. Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lênNgỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…)


Những đồi hoa sim
Trình bày: Như Quỳnh

Lời tự thuật của nhà thơ HỮU LOAN...

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không ?
- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ….Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
-Ngọt quá.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”. Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn….Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”.  (còn nữa.....)

..............................................................

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
 
Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn ......................................................................................................................................

Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
 
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, .............

Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì. Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán......

NNH - Sk...

_________________________________________

Chuyện hoa sim
Thơ: Hữu Loan  -  Nhạc: Anh Bằng  -  Trình bày: Đan Nguyên


Rừng hoang đẹp nhất hoa màu tím
Chuyện tình thương nhất chuyện hoa sim
Có người con gái xuân vời vợi
Tóc còn ngăn ngắn chưa đầy búi
Ngày xưa nàng vẫn yêu màu tím
Chiều chiều lên những đồi hoa sim
Đứng nhìn sim tím hoang biền biệt
Nhớ chồng chinh chiến miền xa xăm
Ôi lấy chồng chiến binh
Lấy chồng thời chiến chinh, mấy người đi trở lại
Sợ khi mình đi mãi, sợ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Mà chết người em gái tôi thương
Đời tôi là chiến binh rừng núi
thường ngày qua những đồi hoa sim
Thấy cành sim chín thương vô bờ
Tiếc người em gái không còn nữa
Tại sao nàng vẫn yêu màu tím
Màu buồn tan tác phải không em
Để chiều sim tím hoang biền biệt
Để mình tôi khóc chuyện hoa sim.


Áo anh sứt chỉ đường tà...
Thơ: Hữu Loan (ý thơ bài: Màu tím hoa sim)  -  Nhạc: Phạm Duy  -  Trình bày: Phạm Ngọc Lân

- Sau năm 1975, nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Sài Gòn. Một hôm đang đi trên phố ông bắt gặp một người đàn ông cụt chân ôm cây guitare cũ kỹ hát xin tiền. Lời bài hát nghe quen quá: “Những đồi hoa sim ơi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai. Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về. Rồi một chiều mưa bay, từ nơi chiến trường Đông Bắc đó, lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt sau đồi…”. Hỏi, mới biết đó là bài Những đồi hoa sim mà lần đầu tiên Hữu Loan được nghe. Ông đề nghị người hành khất hát lại một lần nữa, rồi vét sạch tiền trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ nhạc”, rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ…

Chuyện người con gái hái sim...
 Nhạc: Hồng Vân  -  Trình bày: Như Quỳnh
_______________________________________________

Có một chuyện tình hoa sim khác…

Nhắc đến hoa sim là người ta nhớ ngay đến mối tình thời chiến chinh bất hủ trong Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Nhưng còn một chuyện tình hoa sim khác, không có chiến chinh hay chết chóc bi thương- mà là một mối tình đầy chất đồng dao, chăn trâu cắt cỏ và kết thúc có hậu khi “anh” và “em” thủa ấy đã thành vợ chồng ngày nay.

Nhớ hồi lên chín lên mười
Chiều chiều hai đứa lên đồi hái sim
Anh ngồi đưa nón cho em
Hàm răng tím ngắt màu sim nhoẻn cười

Đó là bài thơ Sim của nhà thơ Quang Huy. Để đến gần 50 năm sau khi nhắc đến Quang Huy người ta vẫn nhớ đến Sim – một “Quang Huy Sim”
Một câu chuyện, hai đồi sim

Vẻn vẹn 10 câu lục bát, chữ nghĩa đơn giản, ý tứ cũng gời gợi nhưng đã trở thành dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Quang Huy. Với ông, Sim không phải là bài thơ hay nhất, cầu kỳ và kỹ lưỡng về câu từ, ý tứ, nhưng nó được ở cái tình. Đó là những vần thơ chín mọng tình yêu một thời trai trẻ mà có lẽ chỉ những ai đã từng sống, từng yêu trong cái thời đại ấy mới hiểu hết.

Bài thơ được viết vào năm 1960. Hồi đó, khi mới vào Nghệ An, nhà thơ Quang Huy dạy học ở Yên Thành và gặp cô học trò Mai Sương. Cô Mai Sương có chị gái lấy chồng ở huyện Tân Kỳ, cách Yên Thành 30km đường núi. Vậy là, để “lấy lòng người đẹp” cũng là tạo cái cớ đi chơi cùng nhau, nhà thơ Quang Huy tình nguyện đạp xe vượt 30km đường núi ấy chở cô Mai Sương lên thăm chị. Đường đi qua những đồi sim ngút ngàn, với những quả sim vào mùa chín mọng, hai người thường dừng lại hái sim. “Chính từ những đồi sim và những buổi chiều cùng nhau nhởn nha hái sim ấy đã khiến tình yêu của chúng tôi trở nên sâu đậm (mặc dù lúc đó 2 người không còn là “lên chín lên mười” nữa). Chúng tôi yêu nhau đến 14 năm trời mới làm đám cưới. Từng ấy năm, phần nhiều là cách xa nhau nhưng tôi cứ cảm như chính từ kỷ niệm bên đồi sim mà chúng tôi gắn bó với nhau hơn”.

Một điều thú vị là, chỉ trong bốn câu thơ đầu viết về đồi sim với chuyện hái sim nhà thơ Quang Huy đã tái hiện đến “hai đồi sim”. Một đồi sim của tuổi thơ lên chín lên mười nơi ông sinh ra (Hải Dương) và một đồi sim của tình yêu với một người con gái thời tuổi trẻ (Nghệ An).

Thời gian dần trôi… đến khi ta lớn, những đồi sim khác, con người cũng khác. Những đồi sim đã trở thành những đồi sắn xanh, (bấy giờ có phong trào khai hoang người ta phá sim để trồng sắn tăng lương thực cho nông dân). Và anh em gặp nhau trong không gian đã thay đổi, sim được thay bằng sắn. Cảm xúc của anh cũng đã khác. Khác nhiều so với cái hồi lên chín, lên mười. Nếu như em của hơn mười năm trước nhoẻn cười với hàm răng tím ngắt màu sim thì em của bây giờ đã trở thành một thiếu nữ cười mỉm với làn da trắng, nét mi thanh. Nhà thơ Quang Huy hóm hỉnh: “Ăn sắn chưa chắc đã ngon hơn sim, nhưng trước một người con gái, lại rõ ràng là người con gái đẹp thế kia thì ăn gì chả ngon, sắn ấy lại do chính em lùi. Ngon là ngon ở cái tình, đậm từ ánh mắt, thơm từ nụ cười mà thôi…”
Và biệt danh “Quang Huy sim” trong một đời thơ

Vậy là, bài thơ Sim đã ra đời. Đó là 15 phút thăng hoa của kỷ niệm tuổi thơ với xúc cảm tình yêu tuổi trẻ. Bài thơ Sim sau khi hoàn thành và dành tặng “độc giả của riêng mình” (Cô Mai Sương) nhà thơ Quang Huy đã gửi đến các báo. Một tháng sau bài thơ được in ở báo Văn Nghệ cùng các nhà thơ tên tuổi khác như Nguyễn Bính, Ngô Quân Miện, Giang Nam, Ngô Văn Phú… rồi liền những năm ấy bài thơ được tuyển chọn vào rất nhiều những tuyển tập thơ tình yêu. Cái tên Quang Huy lúc bấy giờ gắn liền với bài thơ Sim.

“Bây giờ, chẳng còn những đồi sim nữa. Đồi sim thành đường, thành nhà, thành những vườn cây. Muốn tìm thấy một cây cũng khó. Có lần tôi đi công tác qua những vùng đồi, dừng chân lại tìm được mấy quả sim còi còn chưa kịp mọng, thấy xúc động rưng rưng. Đúng là thơ ca cũng có thời có thế. Nếu không biết về những đồi sim, làm sao biết mà yêu cho được. Như sau này trong một bài thơ viết cho thiếu nhi tôi có viết một câu: “Quả sim béo mọng ngủ ngay vệ đường”… cháu tôi đọc, hỏi ông quả sim là quả gì. Làm sao tôi có thể chỉ cho chúng, khi mà đến chính tôi muốn tìm lại hình ảnh những quả sim cũng khó. Chỉ còn biết “ngắm” sim trong kỷ niệm thôi". (Yên Khương)
Xin giới thiệu với bạn đọc bài thơ quả Sim


Nhớ hồi lên chín lên mười
Chiều chiều hai đứa lên đồi hái sim
Anh ngồi đưa nón cho em
Hàm răng tím ngắt màu sim nhoẻn cười
Xa nhau mười mấy năm rồi
Anh về sim đã thành đồi sắn xanh
Em ngồi nướng sắn cho anh
Hàm răng trắng, nét mi thanh, mỉm cười
Anh ăn củ sắn em lùi
Còn ngon gấp mấy cái hồi ăn sim.


Về lại đồi sim...
 Nhạc: Mã Thanh Long  -  Trình bày: Như Quỳnh


Nhớ ngày nào về thăm đồi sim tím với người mình yêu
Hái tặng em hoa sim cài lên tóc màu tím mây chiêù.
Đẹp ngây ngất đồi quê chiều hôm gió lộng tỏa đầy hương baỵ
Em tung tăng cỏ mềm cầm tay anh bảo rằng tình ơi chớ quên.

Để một ngày cùng em về lối cũ núi đồi tịch liêu
Vẩn cành sim rung rung cài lên tóc mà xót xa nhiều .
Đời ai biết ngày mai tình xa cách biệt hay còn bên nhaụ
Em thơ ngây trẻ dại làm sao em hiểu được đời đi là bể dâụ

Rồi một ngày em lênh đênh, cuộc tình đầu không nguôi quên
Anh đi vì phận nghèo, yêu anh càng buồn nhiều càng làm em khổ thêm
Rồi một ngày anh đi xa kỷ niệm đầu không phôi pha
Như hoa rồi dần tàn ai quên thề vội vàng tìm về với giàu sang

Để chiều nay mình tôi về chốn cũ với lòng quạnh hiu
Núi đồi giăng mênh mông màu hoa tím gợi nhớ thương nhiều
Còn đâu nữa bàn tay ngày xưa bé nhỏ kiếm tìm tay nhaụ
Rưng rưng trong kỷ niệm màu hoa sim ngày nào đổi thành niềm đau.
_______________________________________

NNH - Sk... từ KTSM...
(Phần này đã được NNH St và đăng trên chuyên mục STSK vào ngày 30 Apr. 2011/15:18 - hôm nay xin đăng tiếp phần Sk này...)


Được sửa bởi NgNgHai ngày Mon Sep 21, 2015 5:30 pm; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
https://runglathap.forum-viet.com
NgNgHai
Admin
NgNgHai


Tổng số bài gửi : 1379
Join date : 28/04/2011

Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim... Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim...   Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim... EmptyTue Jun 21, 2011 7:45 pm

NNH xin mượn lại bản nhạc để kính tặng quý độc giả nào đã từng yêu mến thi nhân Hữu Loan và bài Những đồi hoa sim...

Chuyện hoa sim...
Trình bày: Băng Tâm, Y Phụng, Ngọc Huyền, Đặng Thế Luân, Mạnh Đình.


NNH xin trân trọng kính mời quý độc giả cùng thưởng thức...

_________________________________________
Về Đầu Trang Go down
https://runglathap.forum-viet.com
 
Nhà thơ HỮU LOAN với nhạc phẩm Những đồi hoa sim...
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Hữu Loan thi nhân - và thi phẩm bất hủ: màu tím hoa sim.
» Loan Mắt Nhung
»  Nhạc phẩm - PaPa....
» Giới thiệu nhạc phẩm TÓC XƯA của Ngô Thụy Miên
» HÀ HUYỀN CHI Tâm sự về nhạc phẩm “Lệ Đá” sáng tác cùng TRẦN TRỊNH

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: VIDEO CLIP :: VIDEO CA NHẠC - PHIM CÁC THỂ LOẠI-
Chuyển đến