Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Nhân mùa Chay Thánh 2012...

Go down 
Tác giảThông điệp
NgNgHai
Admin
NgNgHai


Tổng số bài gửi : 1379
Join date : 28/04/2011

Nhân mùa Chay Thánh 2012... Empty
Bài gửiTiêu đề: Nhân mùa Chay Thánh 2012...   Nhân mùa Chay Thánh 2012... EmptyMon Mar 12, 2012 1:11 pm

Nhân Mùa Chay Thánh năm 2012

- GIUĐA PHẢN BỘI,
- PHÊRÔ CHỐI THẦY
- VÀ NGƯỜI TRỘM LÀNH
DẠY CHO CHÚNG TA NHỮNG BÀI HỌC GÌ ?


Nhân mùa Chay Thánh 2012... 207748_157644320962502_100001508045544_329991_237837_n

Hỏi: Nhân Mùa Chay, xin cha giải thích ý nghĩa việc Giuđa phản bội, người trộm lành sám hối và Phêrô chối Chúa như được ghi lại trong trong các Tin Mừng.

Trả lời: Mùa chay là thời điểm thuận lợi nhất để Giáo Hội mời gọi con cái mình suy niệm sâu xa hơn nữa về tình thương bao la của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu mọi đau khổ, sỉ nhục và chết trên thập giá để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội và có hy vọng được sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Nước Trời .

Mùa chay cũng là mùa sám hối, thúc dục mọi tín hữu nhìn nhận tội lỗi đã phạm để xin Chúa nhân lành khoan dung thứ tha vì Người ”muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý”. ( 1Tm 2:4)

Thiên Chúa là Cha rất nhân lành..Người “chậm giận và giầu tình thương”. Vì thế, ai có lòng trông cậy và kêu xin thì dù cho tội lỗi đến đâu cũng sẽ được tha thứ.Chỉ có sự tuyệt vọng, không còn muốn xin Chúa thương xót tha thứ nữa mới làm bế tắc tình thương bao la của Thiên Chúa cho con người mà thôi

Sau đây là nhũng bài học ta có thể rút ra từ việc Phêrô chối Thầy, Giuđa bán Chúa và người trộm lành sám hối.

Tin Mừng Matthêu, Marcô, Luca và Gioan đều ghi lai sự kiên Phêrô chối Thầy, Giuđa Ít-ca-ri-ốt , một trong 12 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã phản bội Thầy, bán Thầy và tuyệt vọng đến mức treo cổ tự tử sau đó. (Mt 27: 5)

Riêng Tin Mừng Luca ghi lại sự kiên “Người gian phi sám hối và được vào Thiên Đàng với Chúa Giêsu”.

1- Trường hợp của Giuda

Giuđa tượng trưng cho lớp người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa để phản bội người khác, kể cả ân nhân. Giuđa là một trong Nhóm 12 Tông Đồ nòng cốt mà Chúa Giêsu đã chọn lựa cho tham gia vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa từ lúc ban đầu. Giuđa đã được diễm phúc sống bên Chúa suốt 3 năm, đã được trực tiếp nghe lời giảng dạy của Chúa về Nước Trời, về tinh thần khó nghèo cũng như chứng kiến tận mắt đời sống khó nghèo của Chúa ở mức “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20). Vậy mà Giuđa đã không được cảm hóa theo gương khó nghèo của Chúa. Vì thế Giuda đã cam tâm bán Chúa lấy 30 đồng bạc. Nhưng khi chứng kiến cảnh Thầy mình bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn, Giuđa đã hối hận đem tiền trả lại bọn thượng tế và kỳ mục Do Thái rồi đi thắt cổ chết. Hắn tự tử vì quá tuyệt vọng, không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương, tha thứ của Chúa nữa. Đây là điều rất đáng buồn cho anh ta và là gương xấu cho người khác.

Thật vậy, Giuđa đã trở thành gương xấu không những vì tham mê tiền của, phản bội mà nhất là tuyệt vọng về lòng xót thương của Chúa. Đây là điều đáng nói nhất về người môn đệ phản bội này, vì y đã mất hết niềm tin vào Thiên Chúa nhân lành, sẵn lòng tha thứ hết mọi tội lỗi của con người trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội tuyệt vọng không còn tin tưởng gì vào lòng xót thương tha thứ của Chúa nữa.Giuđa đã phạm tội này khi tự tử chết.

Chúa Giêsu đã than thở như sau về sự phản bội của Giuđa:

”…Con đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư mất trừ đứa con hư hỏng để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” ( Ga 17: 12)

lại nữa:

”…đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26: 24; Mc 14: 21)

Dầu vậy, Giáo Hội cũng không dám kết luận chắc chắn về số phận đời đời của Giuđa. Việc này chỉ có một mình Thiên Chúa biết vì Người đã phán đoán Giuđa theo lượng từ bi và công bằng của Người.

Ngược lại , Giáo Hội chỉ lưu ý con cái mình về gương xấu của Giuđa mà thôi. Gương xấu vì Giuđa đã mê tiền của hơn yêu mến Thầy, nên đã phản bội Thầy khi bán Người lấy 30 đồng bạc của các Thượng Tế và kỳ mục Do Thái. Nhưng điều đáng nói nhất về Giuđa là sự tuyệt vọng của anh, khi không còn muốn sám hối để xin Chúa tha thứ nữa, để rồi đi treo cổ tự tử (cf. Mt 27:5). Đây là gương xấu mà mọi tín hữu phải xa tránh vì thực chất của nó là mất hết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa, là Cha nhân từ luôn sẵn lòng tha thứ cho kẻ có tội biết sám hối và xin tha thứ.

2- Phêrô chối Chúa

Ngược lại với Giuđa là kẻ nêu gương xấu về tham tiền và tuyệt vọng, Phêrô lại dạy cho chúng ta bài học quý giá về lòng ăn năn sám hối.

Phêrô cũng có khuyết điểm là quá tự tin nơi mình khi tuyên bố lúc ban chiều trước khi Chúa Giêsu bị bắt: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” ( Mt 26:35)

Nhưng đúng như lời Chúa đã nói trước là đêm đó gà chưa gáy sáng thì Phêrô đã chối Chúa ba lần. Nhưng chối xong và nhớ lại lời Chúa đã nói trước, Phêrô “ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (cf. Mt 26: 75, ; Lc 22: 62). Ông khóc vì ăn năn hối hận đã hèn nhát chối Thầy trước những kẻ bắt bớ và hành hạ Người cách tàn nhẫn. Chính vì thật sự thống hối ăn năn mà Chúa đã tha cho Phêrô tội công khai chối Chúa và còn tín nhiệm trao phó cho Phêrô sứ mệnh “chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy” ( Ga 21: 15-16).

Như thế đủ cho ta thấy là dù tội lỗi con người có nặng đến đâu, nhưng nếu biết sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa thì chắc chắn sẽ được tha thứ và nối lại tình thân với Người, sau khi đã lỡ sa ngã vì yêu đuối của nhân tính do hậu quả của tội nguyên tổ còn để lại.

3- Người gian phi sám hối (Lc 23 : 40-42)

Tin Mừng Luca kể rõ hai tên gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu, một đứa bên phải, một đứa bên trái, trong khi Matthêu nói đó là hai tên cướp ( Mt 27: 38). Chúng bị đóng đinh vì tội trôm cướp, và một trong hai tên gian phi này đã nhận biết tội của mình nên xin cùng Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của Ông xin nhớ đên tôi. Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 42-43)

Như thế, chỉ có lòng ăn năn sám hội thực sự là đáng kể vì là điều đẹp lòng Chúa, và Người sẽ tha hết mọi tội lỗi cho những ai nhận biết mình có tội và xin Chúa thứ tha. Người gian phi sám hối hay còn được gọi là “kẻ trộm lành” đã vào Thiên Đàng bằng đường tắt nhanh chóng chỉ vì biết ăn năn sám hối và chạy đến với lòng thương xót vô biên của Chúa để xin tha thứ.

Người trộm lành này đã từng đi đàng tội lỗi không biết là bao nhiêu năm, nên bị đóng đanh vì những trọng tội mà xã hội Do Thái phải trừng phạt bằng cực hình đóng đanh. Nhưng Chúa đã tha thứ cho anh mọi tội, từ tội nguyên tổ cho đến mọi tội cá nhân anh đã phạm cho đến ngày bị đóng đanh chung với Chúa, là Người lành vô tội, nhưng đã cam lòng chiu khổ hình thập giá để đền thay cho nhân loại đáng phải phạt vì tội.

Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt chước “người trộm lành” bằng cách cứ sống tội lỗi rồi cuối cùng sám hối xin Chúa tha thứ để được vào Nước Trời. Ta chỉ có thể noi gương tốt của anh về lòng sám hối và tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để xin Người tha thứ mọi tội cho ta đã lỡ sa phạm vì yếu đuối của bản chất và vì ma quỉ cám dỗ. Nhưng ta không thể bắt chước anh ta làm những việc sai trái hay đối nghịch với tình thương, sự thánh thiện và công bằng của Chúa để chờ xin tha thứ vào phút chót. Không ai có thể biết ngày giờ nào mình phải ra đi, nên không thể liều mình sống trong tội chờ ngày sám hối được. Cố ý sống như vậy là lợi dụng lòng thương xót, tha thứ của Chúa. Và nếu ai cố ý liều lĩnh như vậy thì hãy nghe lời Chúa cảnh cáo nghiêm khắc sau đây:

“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn đi, nhưng vì người hâm hâm, chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3: 15-16)

Tóm lại, điều thiết yếu là ta phải cố gắng xa tránh mọi tội lỗi vì chỉ có tội là cản trở duy nhất cho ta sống đẹp lòng Chúa mỗi giây phút của đời mình trên trần thế này. Tuy nhiên, vì bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, nhất là vì ma quỉ luôn rình rập để lôi kéo ta vào vòng tội lỗi, nên cần thiết cho ta phải xin ơn Chúa giúp sức để có thể đứng vững, sống theo đường lỗi của Chúa để được an vui ngay trên đời này trước khi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời mai sau.

Bài của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
NNH Sk...

Về Đầu Trang Go down
https://runglathap.forum-viet.com
NgNgHai
Admin
NgNgHai


Tổng số bài gửi : 1379
Join date : 28/04/2011

Nhân mùa Chay Thánh 2012... Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân mùa Chay Thánh 2012...   Nhân mùa Chay Thánh 2012... EmptyMon Mar 12, 2012 1:25 pm

ĐẠO VÀ ĐỜI

Nhân mùa Chay Thánh 2012... 261910_10150243993192355_70630972354_7472877_8221439_n1

Khi nói “Đạo và Đời” thường người ta nghĩ đến mối quan hệ giữa tôn giáo và đời sống thế tục. Tuy nhiên danh từ Đạo ở đây còn có thể mang một ý nghĩa khác. Nghĩa này minh triết Đông phương cho nó là một thực tại không thể nói , không thể gọi tên “Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh” (Lão Tử ĐĐK chương một ) Đạo mà có thể nói, giải nghĩa thì đó không phải Đạo thường, Danh mà có thể gọi thì đó không phải là Danh Thường. Chữ THƯỜNG có nghĩa là thường hằng đời đời bất diệt. Cái thực thể thường hằng ấy tuy không thể nói, không thể gọi nhưng phải được truyền giảng. Không truyền giảng thì chân lý làm sao mà có thể hiện thực có nghĩa đưa Đạo vào Đời ? Làm cho Đạo có thể nhập được vào Đời đó phải là sứ mạng chân chính duy nhất của tôn giáo. Ngược lại đó không phải là Đạo “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo” (Đạo không xa bản tính người, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính người thì đó không phải là Đạo)

Đức Giêsu Kitô là sự sáng soi để cho con người có thể nhận biết hầu thể nhập với Đạo “Ban đầu có Đạo, Đạo ở cùng Đức Chúa Trời và Đạo là Đức Chúa Trời. Đạo ấy ban đầu ở cùng ĐCT, muôn vật bởi Ngài dựng nên, phàm vật dựng nên ngoài Ngài chẳng thể có vật gì được dựng nên. Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người . Sự sống soi trong tối tăm mà tối tăm chẳng tiếp nhận” (Ga 1, 1-5) Đức Kitô xuống thế để mở ra một mối Đạo nhưng muốn thực sự sống cái mối Đạo ấy thì phải dám bỏ mình “Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình vác thập tự giá hàng ngày mà theo”(Mt) Phải bỏ mình đi mới có thể sống Đạo và sống Đạo không phải là sống cái chi khác mà là sống cái bản tính mình.

Sống Đạo là sống cái bản tính, hiểu như vậy thì vấn đề quan trọng cần phải đặt ra , vậy bản tính đích thực của con người là gì ? Trong suốt 25 thế kỷ qua , có thể nói toàn bộ tư tưởng Tây phương trong đó cố nhiên bao gồm cả Kitô giáo đã bị thống ngự bởi câu định nghĩa của Aristote “Người là con vật biết suy lý” (l’homme est l’animal raisonable). M. Heidegger đã nặng lời kết án câu định nghĩa đó là thú vật (zoologique) “ Chính trong khung cảnh của câu định nghĩa trên mà đã được kiến tạo nên quan niệm về con người của Âu Tây tất cả những gì là tâm lý, luân lý tri thức luận và nhân bản. Đã từ lâu chúng ta bị xiêu bạt trong mớ lộn xộn những ý tưởng và khái niệm từ trong các môn đó là vì cứ sự nó đã đặt nền trên một câu định nghĩa sa đọa” (Kim Định – Nhân Bản )

Đạo là thực thể tuy không thể nói, không thể gọi tên, nhưng đây mới chính là cái nền tảng, là bản tánh của muôn loài muôn vật, kể cả vô tình lẫn hữu tình. Ở loài vô tình thì đó là Tánh Không, còn ở loài hữu tình thì Đạo Phật cho nó là giác tánh (Tánh Biết). Đạo Chúa cho là Thiên Chúa Tình Yêu”( 1Ga 4, 16.)

Cái Thể tức ĐẠO là hoàn toàn trống không (chân không) nhưng chính do nơi cái trống không đó nên mới có thể có được muôn vàn diệu dụng. Này nhé, bất kể thứ gì từ những cái vật dụng sử dụng thường ngày, cái ly ,chén bát, xe cộ…..cho đến sự sống muôn loài đều được quyết định bởi cái KHÔNG trống rỗng ấy. Một cái nhà để ở thì cần phải có cửa sổ, cửa ra vào mà hễ đã gọi là cửa thì đó chẳng phải là để mở thông từ khoảng trống bên trong là cái phòng ra đến bên ngoài hay sao? Mặt khác chúng ta có sống, có tồn tại được cũng là do trong thân thể có những khoảng không. Không có những khoảng không trong phổi, trong tim, trong miệng, trong mũi, trong ruột….thì chúng ta có thở ra hít vào, có thể ăn uống tiêu tiểu được không ? Tánh KHÔNG ấy xét về mặt vĩ mô, không gì có thể ở ngoài nó còn xét về mặt vi mô không gì có thể ở trong nó.

Ở nơi vạn vật Tánh KHÔNG là THỂ, còn ở nơi con người nó là Tánh BIẾT. Tánh BIẾT này bất sinh bất diệt và không ai lại không đầy đủ dù là hạng thông minh bác học xuất chúng hay là kẻ ngu si thất học. Tánh BIẾT ấy thể hiện qua mắt gọi là Thấy, qua tai gọi là Nghe, qua mũi gọi là Ngửi, qua lưỡi gọi là Nếm, qua thân gọi là Xúc, qua ý gọi là Thức. Ta sống là sống với Tánh BIẾT dù khi ngủ hay khi thức.Hằng ngày ta vẫn sống với Tánh BIẾT, dù đi, đứng, nằm ngồi, tắm giặt ăn ngủ….và nếu ta biết là ta đang đi đứng nằm ngồi….thì đó là Thiền là tỉnh thức còn trái lại là mê. Ta đi đứng, nằm ngồi… là đi đứng nằm ngồi…. chứ chẳng có ai phải suy tư nghĩ ngợi rồi mới có thể đi đứng nằm ngồi…. Tuy nhiên, thực tế thì sao ? Có ai trong khi đi đứng nằm ngồi, đọc kinh lần chuỗi… mà chỉ có đi đứng nằm ngồi đọc kinh lần chuỗi… hay là cứ rong ruổi lan man nghĩ ngợi hết chuyện này việc kia ? Có khi đang ăn mà có việc nghĩ ngợi lại quên cả ăn, mất cả ngủ đó là chuyện thường tình của người thế gian…. Danh từ nhà đạo chúng ta gọi cái việc đọc kinh mà cứ suy nghĩ vẩn vơ gọi là chia lòng chia trí. Chia lòng chia trí có nghĩa là phân tâm mà phân tâm tức là phân cái tâm ra làm hai. Đang là chân tâm vô phân biệt bất sinh bất diệt lại biến nó thành ra cái tâm phân biệt vọng tưởng sinh diệt. Tâm vô phân biệt là tâm tỉnh giác là ĐẠO, còn tâm phân biệt là tâm mê muội là ĐỜI.. ĐẠO và ĐỜI chỉ khác biệt nhau ở chỗ tỉnh và mê đó mà thôi.

Trong câu chuyện nguyên tổ sa ngã đầy tính minh triết ấy ta thấy Adam đã “Ăn”phải trái cấm phân biệt và đã bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng để rồi cứ mãi trôi lăn trong kiếp phù sinh bọt bèo đau khổ “Đất sẽ sanh chông gai và cây trái đắng đót. Ngươi sẽ ăn rau cỏ của ruộng đồng. Phải đổ mồ hôi trán rán mồ hôi bụng mới có cái để ăn cho đến ngày nào ngươi trở về đất là nơi mà ngươi đã được sinh ra. Vì ngươi là cát bụi thì sẽ trở về với cát bụi” - Stk 3, 18-19.

Con người được sinh ra giống “Hình ảnh Thiên Chúa” (Stk 1, 26) tức cội nguồn của nó là Thiên Chúa chứ không phải đất bụi, thế nhưng dường như sau khi bị đuổi khỏi Địa Đàng thân phận của nó đã bị thay đổi “cát bụi lại trở về cát bụi”. Chắc chắn thân phận của nó sẽ mãi mãi là như thế nếu không có Lời Hứa của Thiên Chúa Giave “Ta sẽ làm cho mi cùng Người Nữ, dòng dõi mi cùng dòng dõi Người Nữ nghịch thù nhau. Người sẽ dày đạp đầu mi còn mi thì sẽ rình cắn gót chân Người” (Stk 3, 15).

Người Nữ ai cũng biết ám chỉ Đức Nữ Trinh MARIA, người đã được tiên báo trong Kinh Thánh “ Kìa Nữ Đồng Trinh sẽ thọ thai sinh một con trai. Người ta sẽ gọi con trẻ đó là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” Is 7,14. Còn Đấng Thiên Chúa ở cùng đó chính là Đức Giesu KiTô, Ngài đã từ nơi Đạo để vào ĐỜI, từ chỗ vô hình vô tướng không thể nói không thể gọi tên để vào nơi hữu hình hữu tướng có thể nghe , có thể xúc tiếp “Đạo đã trở nên xác thịt, đóng trại giữa chúng ta, đầy ân sủng và lẽ thật” (Ga 1, 14.) Đức KiTo đã từ nơi Đạo vào Đời không phải là để ở lại cái cõi sinh diệt, diệt sinh vô thường khổ não này làm gì, sứ mạng một khi đã hoàn tất, Ngài về cùng CHA “Ta từ CHA mà đến thế gian, lại lìa thế gian mà về cùng CHA” (Ga 16,, 28.) Sứ mạng cứu nhân độ thế của Chúa Giesu là để dẫn đưa con người về với Đấng CHA và sự trở về ấy không phải chỉ dành cho con người mà là của toàn thể sinh linh vạn vật. Lão Tử nói “Vạn vật tịnh tác ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân các phục quy kỳ căn, quy căn viết tịnh, thị viết phục mạng, phục mạng viết thường”(vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về gốc. Ôi mọi vật trùng trùng đều trở về gốc của nó.Trở về cội rễ gọi là tịnh, ấy gọi là phục mạng, phục mạng gọi là THƯỜNG –ĐĐK, chương 16 )

Vạn vật sinh nhưng sinh là để trở về chứ không phải để cứ mãi biền biệt ra đi. Bao lâu đi mà chưa về được thì vẫn chưa thỏa. Tản Đà thi sĩ ngóng ngày về của nước với non “…nước đi đi mãi chưa về cùng non”. Đức Khổng Tử thở than “thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ ?(đêm ngày cứ trôi chảy mãi thế này ư? (Luận ngữ- Tử Hãn ) Còn Thánh Augustin lại thiết tha van nài với CHÚA “Lạy Chúa ,Chúa đã dựng nên con vì Chúa, nên tâm hồn con còn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ yên nơi Ngài”

Làm sao để “VỀ” đó là ước vọng tha thiết của những con người tôn giáo. Tuy nhiên khát vọng tâm linh ấy chỉ có thể nhen nhúm để rồi bùng cháy khi nào ta nhận thức được tính chất khổ của mình, của người và của toàn thể cuộc sống này. Càng thấy mình, thấy người khổ, thấy đời khổ bao nhiêu thì càng có cơ thoát khổ bấy nhiêu. Ngược lại không thấy đời là bể khổ, thế gian là chốn khách đầy thì chẳng đời nào muốn về. Mà đã không muốn thì chẳng bao giờ có thể về. Hãy thử xem đứa con hoang đàng kia nếu nó không khổ sở nhục nhã đói rách bị người ta dày đạp bắt đi chăn heo “mong lấy vỏ đậu của heo ăn mà thồn cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho” Gạ 15, 12.thì y ta có tỉnh ngộ được chăng ? Thấy khổ không phải để rồi bi quan yếm thế chán người chán đời. Chúa xuống thế đưa Đạo vào Đời không phải để dạy cho chúng ta bài học làm người chi chi đó nhưng là để trao ban giới răn yêu thương “Điều răn của Ta đây này, các con hãy yêu thương nhau cũng như Ta đã thương yêu các con” Ga 15, 12.

Giới răn của CHÚA đòi hỏi chúng ta phải yêu như CHÚA yêu.. Có yêu như thế mới là yêu thật. Ngoài ra chỉ là môi mép đãi bôi Thế nhưng mối Đạo một khi đã mở tất nhiên cũng phải có lối vào. Lối vào ấy thế này “Như CHA đã thương yêu Ta thế nào thì Ta cũng thương yêu các ngươi thể ấy. Hãy cứ ở trong sự thương yêu của TA .Nếu các ngươi giữ các điều răn của Ta thì sẽ cứ ở trong sự thương yêu của Ta cũng như chính Ta đã giữ các điều răn của Cha Ta và cứ ở trong sự thương yêu của Ngài” Ga, 15, 9-10

“Cứ ở trong sự thương yêu” đó là cái cốt yếu của Đạo. Thế nhưng thế nào là cứ ở trong sự thương yêu ? Đức KITÔ vì yêu thương nhân loại đến nỗi hiến cả mạng sống mình để mở ra con đường thoát khổ bằng cách truyền dạy nhiều điều và nhất là đã lập ra các Bí Tích hầu cho chúng ta được ơn cứu rỗi. Tuân giữ các giới răn với tất cả lòng tin yêu đó chính là “cứ ở trong sự thương yêu”. Chúa dạy “ Khi làm xong mọi việc được giao phó, hãy nói chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng” Lc17, 10. đó là ở trong sự thương yêu. Chúa dạy “Khi các con cầu nguyện hãy vào phòng kín đóng cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi” Mt 6, 6. thì những việc đọc kinh lần hạt dự lễ đều phải quy hướng về Ngài đó là cứ ở trong sự thương yêu. Tóm lại “ở trong sự thương yêu tức là làm mọi việc vì CHÚA chứ không phải vì mình. Làm vì CHÚA thì ở trong CHÚA còn làm vì mình thì ở ngoài CHÚA. Ở trong CHÚA thì như cành được tháp vào thân cây tươi tốt thu đoạt vô kể công phúc. Trái lại không ở trong CHÚA thì giống như cành lìa cây bị khô héo chỉ có nước quăng vào lửa “Nếu ai chẳng cứ ở trong Ta thì bị ném ra như nhánh kia khô héo rồi người ta lượm lấy quăng vào lửa mà đốt đi .Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta và Lời Ta cứ ở trong các ngươi thì hễ điều gì các ngươi muốn hãy xin thì Ta sẽ làm điều đó cho các ngươi Ga, 15, 6-7.
Ở trong CHÚA tức ở trong ĐẠO mà ĐẠO thì hằng miên viễn tràn đầy khoái hoạt và tự do. ĐẠO không thể cưỡng cầu nhưng cũng không thể không hết lòng tìm và một khi đã tìm được dù chỉ một phần rất nhỏ thôi thật cũng đáng để cho biết rằng mình chẳng uổng công bấy lâu. Vì vậy nên nói:

“Đạo chi tôn
Đức chi quý
Phù mạc chi mạng nhi thường tự nhiên”

(Đâu phải tôn đạo quý đức là một phận sự bắt buộc mà là một chiều hướng tự nhiên) Lão Tử.ĐĐK chương 51)

Bài của Phùng Văn Hóa

NNH Sk&Th...


Về Đầu Trang Go down
https://runglathap.forum-viet.com
 
Nhân mùa Chay Thánh 2012...
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Ghi nhận từ một bài giảng - Thứ Sáu Tuần Thánh 2012
» Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nhân ngày hòa bình thế giới 2012: Giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình
» MÙA CHAY, TUẦN THÁNH – NHỮNG TẬP TỤC- TRUYỀN THỐNG
» Cảm nhận về bài: Tôi đi học - của Thanh Tịnh
» Nhân ngày lễ Thánh Phero - Phaolo... 2011

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: TÂM HỒN... :: TÂM LINH ĐỜI SỐNG-
Chuyển đến